31 thg 8, 2010

Tài liệu CIM và FMS

Tài liệu CNC

http://www.mediafire.com/?8gqrg66ksdif3uh

Tài liệu tối ưu hoá quá trình cắt gọt

Dowload tại:
http://www.mediafire.com/?5tkwfbghgxd4ngk

Sách Robot công nghiệp

http://www.mediafire.com/?6gbac5phghj9ugf

Sách nguyên lý cắt và dụng cụ cắt (T. Anh)

Cuốn sách này rất hay chỉ vấn đề là bằng tiếng Anh.
http://www.mediafire.com/?1xmdc8z166oxnad

Tiện cứng và ảnh hưởng của chế độ cắt đến tiện cứng

http://www.mediafire.com/?i9mtcevpb76x28b

Bài giảng TK Dụng cụ cắt

Dowload tại :
http://www.mediafire.com/?pg5cqi5a2gj9xic

Phần mềm vẽ đồ thị TableCuve3D

Đây là phần mềm chuyên dụng để vẽ đồ thị và tìm hàm quan hệ trong các thí nghiệm - rất nhanh, khoa học và các đồ thị đẹp. Nó chứa thư viện có tới hàng chục ngàn dạng đường cong và đồ thị chuẩn, khi thí nghiệm số liệu phù hợp với dạng đường cong nào thì ta chọn chứ không bắt buộc là dạng tuyến tính hay dạng hàm số mũ.
Dowload tại :
http://www.mediafire.com/?2muh67g9c5sbbm2

Tài liệu ngôn ngữ lập trình ATP

http://www.mediafire.com/?ru1d1i9wvw1o13j

Rung động của quá trình mài

http://www.mediafire.com/?wbdi7n8zdpwvlp6

Tài liệu về quá trình mài (Tổng quan, gồm 2 phần)

http://www.mediafire.com/?n23tc57te3gnd45
http://www.mediafire.com/file/n23tc57te3gnd45/phan20220chuong201.doc

30 thg 8, 2010

HƯỚNG DẪN UPLOAD FILE , PHẦN MỀM ……… LÊN BLOG

upload file của chúng ta lên một trang cho phep upload miễn phí (free hotting).
Sau đó lấy link download cho vào blog, mọi người theo linh này down load về tài liệu về.
Sau đây tui xin hướng dãn cụ thể các bạn upload file lên mediafile(dựa trên blog này).

Bắt đầu
Các bạ cần vào trang chủ mediafia theo linh sau http://www.mediafire.com/
Nêu ko có thể tới bằng tiện ích sau.
Các bạn tìm tới hình sau trên blog

Nhấn vào chữ upload

Cách nén và giải nén file dùng WinRAR

Cách nén và giải nén file dùng WinRAR
neu ban chua co phan mem giai nen download o day http://www.rarlab.com/download.htm


08.07.2008 00:19


Sau khi cài đặt WinRAR với những tùy chọn mặc định, mỗi khi ta click chuột phải vào một file bất kỳ trong cửa sổ Windows Explorer, ta sẽ thấy có thêm một số mục của WinRAR trong context menu (popup menu).

Vì có nhiều thuật toán nén dữ liệu khác nhau nên cũng có nhiều loại chuẩn nén khác nhau, như: zip, rar, cab, arj, lzh, ace, 7z, tar, gz, uue, bz, jar, iso, z, …WinRAR hỗ trợ nén theo hai chuẩn zip và rar, và hỗ trợ giải nén 14 chuẩn nén liệt kê ở trên.

1- Hướng dẫn nén file (hay thư mục):

Ai muốn có 1 triệu đô la!!!!!!!!11

Ai muốn có 1 triệu đô la hãy giải 1 trong bảy bài toán thiên niên kỷ. Một triệu đô la dành cho ai giải được bất kỳ bí ẩn nào trong số bảy bí ẩn toán học.

Đó chính là phần thưởng do một tổ chức tư nhân nêu ra nhằm đưa toán học trở lại vị trí xứng đáng của nó. Và dĩ nhiên, cũng để trả lời những câu hỏi lớn vẫn làm đau đầu các nhà toán học bấy lâu nay.

7 bài toán ” Clay ” đặt ra cho ” thiên kỷ ” cũng theo tinh thần Hilbert, nghĩa là bao gồm toàn bộ các lãnh vực toán học. Người ta có thể thấy hơi ” kỳ ” : người ” ra đề ” không phải là một cơ quan chính thức như Liên hiệp quốc tế toán học hay Hội toán học Pháp, mà lại là một cơ sở tư nhân.

Sự thật là ngày nay không có, không thể có một nhà toán học ” phổ quát ” nữa _ toán học đã trở thành quá mênh mông. Không còn minh chủ được quần hùng một lòng tôn vinh, thì lại càng nên tránh để nổ ra những cuộc xung đột giữa các môn phái. Vả lại, kiếm đâu ra mấy triệu $, nếu không gõ cửa tư nhân? Dù sao, Hội đồng khoa học của Viện Clay (tập hợp những chuyên gia kiệt xuất trong tất cả các ngành toán học, và đầu tiên phải kể tên Andrew Wiles, người đã chứng minh ” định lý cuối cùng của Fermat “) đã đánh liều tiếp nối con đường của Hilbert để nêu ra 7 bài toán cho thế kỷ 21.

1. Giả thuyết Poincaré Henri Poincare (1854-1912), là nhà vật lý học và toán học người Pháp, một trong những nhà toán học lớn nhất thế kỷ 19. Giả thuyết Poincaré do ông đưa ra năm 1904 là một trong những thách thức lớn nhất của toán học thế kỷ 20.

Lấy một quả bóng (hoặc một vật hình cầu), vẽ trên đó một đường cong khép kín không có điểm cắt nhau, sau đó cắt quả bóng theo đường vừa vẽ: bạn sẽ nhận được hai mảnh bóng vỡ. Làm lại như vậy với một cái phao (hay một vật hình xuyến): lần này bạn không được hai mảnh phao vỡ mà chỉ được có một. Trong hình học topo, người ta gọi quả bóng đối lập với cái phao, là một về mặt liên thông đơn giản. Một điều rất dễ chứng minh là trong không gian 3 chiều, mọi bề mặt liên thông đơn giản hữu hạn và không có biên đều là bề mặt của một vật hình cầu. Vào năm 1904, nhà toán học Pháp Henri Poincaré đặt ra câu hỏi: Liệu tính chất này của các vật hình cầu có còn đúng trong không gian bốn chiều. Điều kỳ lạ là các nhà hình học topo đã chứng minh được rằng điều này đúng trong những không gian lớn hơn hoặc bằng 5 chiều, nhưng chưa ai chứng minh được tính chất này vẫn đúng trong không gian bốn chiều.

2. Vấn đề P chống lại NP Với quyển từ điển trong tay, liệu bạn thấy tra nghĩa của từ “thằn lắn” dễ hơn, hay tìm một từ phổ thông để diễn tả “loài bò sát có bốn chân, da có vảy ánh kim, thường ở bờ bụi” dễ hơn?

Câu trả lời hầu như chắc chắn là tra nghĩa thì dễ hơn tìm từ. Những các nhà toán học lại không chắc chắn như thế. Nhà toán học Canada Stephen Cook là người đầu tiên, vào năm 1971, đặt ra câu hỏi này một cách “toán học”. Sử dụng ngôn ngữ lôgic của tin học, ông đã định nghĩa một cách chính xác tập hợp những vấn đề mà người ta thẩm tra kết quả dễ hơn (gọi là tập hợp P), và tập hợp những vấn đề mà người ta dễ tìm ra hơn (gọi là tập hợp NP). Liệu hai tập hợp này có trùng nhau không? Các nhà lôgic học khẳng định P # NP. Như mọi người, họ tin rằng có những vấn đề rất khó tìm ra lời giải, nhưng lại dễ thẩm tra kết quả. Nó giống như việc tìm ra số chia của 13717421 là việc rất phức tạp, nhưng rất dễ kiểm tra rằng 3607 x 3808 = 13717421. Đó chính là nền tảng của phần lớn các loại mật mã: rất khó giải mã, nhưng lại dễ kiểm tra mã có đúng không. Tuy nhiên, cũng lại chưa có ai chứng minh được điều đó. “Nếu P=NP, mọi giả thuyết của chúng ta đến nay là sai” – Stephen Cook báo trước. “Một mặt, điều này sẽ giải quyết được rất nhiều vấn đề tin học ứng dụng trong công nghiệp; nhưng mặt khác lại sẽ phá hủy sự bảo mật của toàn bộ các giao dịch tài chính thực hiện qua Internet”. Mọi ngân hàng đều hoảng sợ trước vấn đề lôgic nhỏ bé và cơ bản này!

3. Các phương trình của Yang-Mills Các nhà toán học luôn chậm chân hơn các nhà vật lý. Nếu như từ lâu, các nhà vật lý đã sử dụng các phương trình của Yang-Mills trong các máy gia tốc hạt trên toàn thế giới, thì các ông bạn toán học của họ vẫn không thể xác định chính xác số nghiệm của các phương trình này.

Được xác lập vào những năm 50 bởi các nhà vật lý Mỹ Chen Nin Yang và Robert Mills, các phương trình này đã biểu diễn mối quan hệ mật thiết giữa vật lý về hạt cơ bản với hình học của các không gian sợi. Nó cũng cho thấy sự thống nhất của hình học với phần trung tâm của thể giới lượng tử, gồm tương tác tác yếu, mạnh và tương tác điện từ. Nhưng hiện nay, mới chỉ có các nhà vật lý sử dụng chúng…

4. Giả thuyết Hodge Euclide sẽ không thể hiểu được gì về hình học hiện đại. Trong thế kỷ XX, các đường thẳng và đường tròn đã bị thay thế bởi các khái niệm đại số, khái quát và hiệu quả hơn. Khoa học của các hình khối và không gian đang dần dần đi tới hình học của “tính đồng đẳng”. Chúng ta đã có những tiến bộ đáng kinh ngạc trong việc phân loại các thực thể toán học, nhưng việc mở rộng các khái niệm đã dẫn đến hậu quả là bản chất hình học dần dần biến mất trong toán học.

Vào năm 1950, nhà toán học người Anh William Hodge cho rằng trong một số dạng không gian, các thành phần của tính đồng đẳng sẽ tìm lại bản chất hình học của chúng…

5. Giả thuyết Riemann 2, 3, 5, 7, …, 1999, …, những số nguyên tố, tức những số chỉ có thể chia hết cho 1 và chính nó, giữ vai trò trung tâm trong số học. Dù sự phân chia các số này dường như không theo một quy tắc nào, nhưng nó liên kết chặt chẽ với một hàm số do thiên tài Thụy Sĩ Leonard Euler đưa ra vào thế kỷ XVIII.

Đến năm 1850, Bernard Riemann đưa ra ý tưởng các giá trị không phù hợp với hàm số Euler được sắp xếp theo thứ tự. Giả thuyết của nhà toán học người Đức này chính là một trong 23 vấn đề mà Hilbert đã đưa ra cách đây 100 năm. Giả thuyết trên đã được rất nhiều nhà toán học lao vào giải quyết từ 150 năm nay. Họ đã kiểm tra tính đúng đắn của nó trong 1.500.000.000 giá trị đầu tiên, nhưng … vẫn không sao chứng minh được. “Đối với nhiều nhà toán học, đây là vấn đề quan trọng nhất của toán học cơ bản” – Enrico Bombieri, giáo sư trường Đại học Princeton, cho biết. và theo David Hilbert, đây cũng là một vấn đề quan trọng đặt ra cho nhân loại. Bernhard Riemann (1826-1866) là nhà toán học Đức. Giả thuyết Riemann do ông đưa ra năm 1850 là một bài toán có vai trò cực kỳ quan trọng đến cả lý thuyết số lẫn toán học hiện đại.

6. Các phương trình của Navier-Stokes Chúng mô tả hình dạng của sóng, xoáy lốc không khí, chuyển động của khí quyển và cả hình thái của các thiên hà trong thời điểm nguyên thủy của vũ trụ. Chúng được Henri Navier và George Stokes đưa ra cách đây 150 năm. Chúng chỉ là sự áp dụng các định luật về chuyển động của Newton vào chất lỏng và chất khí. Tuy nhiên, những phương trình của Navier-Stokes đến nay vẫn là một điều bí ẩn của toán học: người ta vẫn chưa thể giải hay xác định chính xác số nghiệm của phương trình này.

“Thậm chí người ta không thể biết là phương trình này có nghiệm hay không” – nhà toán học người Mỹ Charles Fefferman nhấn mạnh – “Điều đó cho thấy hiểu biết của chúng ta về các phương trình này còn hết sức ít ỏi”.

7. Giả thuyết của Birch và Swinnerton-Dyer: Những số nguyên nào là nghiệm của phương trình ? có những nghiệm hiển nhiên, như . Và cách đây hơn 2300 năm, Euclide đã chứng minh rằng phương trình này có vô số nghiệm. Hiển nhiên vấn đề sẽ không đơn giản như thế nếu các hệ số và số mũ của phương trình này phức tạp hơn…

Người ta cũng biết từ 30 năm nay rằng không có phương pháp chung nào cho phép tìm ra số các nghiệm nguyên của các phương trình dạng này. Tuy nhiên, đối với nhóm phương trình quan trọng nhất có đồ thị là các đường cong êlip loại 1, các nhà toán học người Anh Bryan Birch và Peter Swinnerton-Dyer từ đầu những năm 60 đã đưa ra giả thuyết là số nghiệm của phương trình phụ thuộc vào một hàm số f: nếu hàm số f triệt tiêu tại giá trị bằng 1 (nghĩa là nếu f(1)= 0), phương trình có vô số nghiệm. nếu không, số nghiệm là hữu hạn. Giả thuyết nói như thế, các nhà toán học cũng nghĩ vậy, nhưng đến giờ chưa ai chứng minh được…

Người ta thấy vắng bóng ngành Giải tích hàm (Functional analysis) vốn được coi là lãnh vực vương giả của nghiên cứu toán học. Lý do cũng đơn giản : những bài toán quan trọng nhất của Giải tích hàm vừa mới được giải quyết xong, và người ta đang đợi để tìm được những bài toán mới.

Một nhận xét nữa : 7 bài toán đặt ra cho thế kỷ 21, mà không phải bài nào cũng phát sinh từ thế kỷ 20. Bài toán P-NP (do Stephen Cook nêu ra năm 1971) cố nhiên là bài toán mang dấu ấn thế kỷ 20 (lôgic và tin học), nhưng bài toán số 4 là giả thuyết Riemann đã đưa ra từ thế kỉ 19. Và là một trong 3 bài toán Hilbert chưa được giải đáp ! Một giai thoại vui: Vài ngày trước khi 7 bài toán 1 triệu đôla được công bố, nhà toán học Nhật Bản Matsumoto (sống và làm việc ở Paris) tuyên bố mình đã chứng minh được giả thuyết Riemann. Khổ một nỗi, đây là lần thứ 3 ông tuyên bố như vậy. Và cho đến hôm nay, vẫn chưa biết Matsumoto có phải là nhà toán học triệu phú đầu tiên của thế kỉ 21 hay chăng…

Trong số 7 bài toán trên có 1 bài đã được chứng minh. Đó là giả thuyết Poincaré. Cuối năm 2002, nhà toán học Nga Grigori Perelman tại Viện toán học Steklov (St. Petersburg, Nga) công bố chứng minh Giả thuyết Poincaré. Và mới đây, vào tháng 6 năm 2004, tin tức về việc chứng minh giả thuyết Riemann của nhà toán học Louis De Branges ở Đại học Purdue cũng được công bố và hiện vẫn đang trong giai đoạn kiểm tra. Cũng xin lưu ý là trong số 7 bí ẩn toán học này, thì hai bài toàn này thuộc loại “xương” hơn cả (dĩ nhiên cái này cũng tương đối) thế nhưng nó lại (có thể) được chứng minh trước.

Tuy nhiên có thể dễ dàng lý giải điều này, vì đây là hai bài toán có vai trò rất quan trọng trong cả lĩnh vực của nó lẫn trong toán học hiện đại nói chung (nhất là giả thuyết Riemann). Chúng ta cùng chờ xem sự thẩm định của các nhà toán học.

24 thg 8, 2010

Trình tự thiết kế dụng cụ cắt

1. Nghiên cứu đặc điểm và yêu cầu của chi tiết gia công, bao gồm:
• Đặc điểm các bề mặt của chi tiết
• Độ chính xác của chi tiết: sai lệch kích thước, sai lệch vị trí tương quan, sai lệch hình dáng hình học
• Chất lượng bề mặt gia công
• Vật liệu chi tiết gia công
2. Nghiên cứu động học cắt và sơ đồ cắt
Dựa vào những phân tích đặc điểm và yêu cầu kỹ thuật của chi tiết gia công, cần xác định chuyển động tương đối giữa dụng cụ cắt và chi tiết, xác định sơ đồ cắt hợp lý nhất. Từ đó xác định kết cấu thích hợp của dụng cụ cắt
3. Nghiên cứu thiết bị
Khi nghiên cứu những yêu cấu kỹ thuật của chi tiết gia công, lựa chọn động học cắt và sơ đồ cắt, cần phải tính đến khả năng của thiết bị hiện có có đáp ứng được yêu cầu không. Nếu không đáp ứng được thì phải điều chỉnh lại.
4. Chọn kết cấu và tính biên dạng của dụng cụ cắt
5. Qui định các yêu cầu kỹ thuật của dụng cụ cắt, thông thường gồm các yêu cầu sau:
• Vật liệu dụng cụ cắt, vật liệu thân dao
• Độ cứng sau nhiệt luyện
• Độ chính xác của biên dạng phần cắt, mặt chuẩn, chuẩn kiểm tra, sai số tương quan giữa các bề mặt
• Qui định độ nhẵn bề mặt cho các bề mặt của dụng cụ
6. Vẽ bản vẽ chế tạo
Bản vẽ chế tạo phải thể hiện đầy đủ kết cấu, kích thước của dụng cụ cắt, các sai lệch, các yếu tố chất lượng bề mặt gia công, vật liệu gia công, độ cứng và chất lượng vật liệu sau nhiệt luyện, các chỉ dẫn cho quá trình chế tạo dụng cụ và các yêu cầu khác..

Các mẫu cắt tỉa dưa hấu tuyệt đẹp!!!!!!

Nghệ nhân Taj Mahal đã biến tấu những quả dưa hấu vô hồn thành các tác phẩm độc đáo. Nghệ thuật điêu khắc trên trái cây đã xuất hiện cách đây khoảng 700 năm ở vùng Viễn Đông, Nga. Khi đó trái cây được chạm trổ chỉ xuất hiện tại các bữa tiệc hoàng gia và được cắt tỉa phỏng theo hình dáng của các loại hoa hoặc những nhân vật truyền thuyết. Tuy nhiên, ngày nay các nghệ nhân thường cắt tỉa mô phỏng theo theo đủ mọi kiểu dáng để tạo ra các tác phẩm điêu khắc. Đó có thể là những chú chim cánh cụt mũm mĩm cho tới ngôi đền Taj Mahal nổi tiếng ở Ấn Độ. Bằng đôi tay khéo léo và lòng đam mê nghệ thuật, anh Takashi Itoh - một bếp trưởng của khách sạn nổi tiếng ở Nhật Bản đã cho ra đời hàng loạt tác phẩm nghệ thuật sống động, chân thực chỉ với dao trổ và dưa hấu. 8 năm qua, Takashi đã cho ra đời hàng trăm tác phẩm điêu khắc trên dưa hấu. Với hình đơn giản, anh chỉ mất 20 phút để hoàn thiện, nhưng với những hình phức tạp và cầu kỳ phải mất từ 40-90 phút.

Hình gây ảo giác 3!

Đây chỉ là một số tranh trong kho tàng đồ sộ của hoạ sĩ thiên tài M.C.Escher. Khi nào rảnh sẽ post tiếp.



Hình gây ảo giác 2!!

Đây là những bức tranh có có cả chữ viết tay của tác giả. Tất cả đều ... tuyệt!















































Hình gây ảo giác 2!

Có bao nhiêu chấm đen?


Các đường kẻ ngang có song song?


Hai đương thẳng màu tím không song song?

Hình gây ảo giác

 Đây là những kiệt tác nghệ thuật. Hãy quan sát thật kĩ, bạn sẽ thấy nhiều điều thú vị !